Hiển thị các bài đăng có nhãn tác giả Trịnh Hảo Tâm. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn tác giả Trịnh Hảo Tâm. Hiển thị tất cả bài đăng

medium_DSC2202.jpg

Mặt phía Ðông điện Capitol tòa nhà Quốc Hội Hoa Kỳ.

medium_DSC2203.jpg

Rotunda mái vòm trong tòa nhà Quốc Hội.

medium_DSC2204.jpg

Phòng trưng bày các tượng Tổng Thống Hoa Kỳ.

medium_DSC2205.jpg

Bên trong tòa nhà Thomas Jefferson Library of Congress.

medium_DSC2207.jpg

Tòa nhà Thư Viện Quốc Hội bên cạnh tòa Quốc Hội Hoa Kỳ.


Ðiện Capitol là tòa nhà Quốc Hội Liên Bang của Hoa Kỳ, tọa lạc trên đồi Capitol cuối phía Ðông của dãy cỏ xanh National Mall ở thủ đô Washington, DC. Quốc Hội theo quy chế lưỡng viện nên tòa nhà có hai viện: Thượng Nghị Viện (Senate) chiếm cánh phía Bắc và Hạ Nghị Viện (House of Representatives) ở cánh hướng Nam. Ðiện Capitol xây bằng cẩm thạch trắng bên trên có mái vòm lớn là địa điểm thu hút khách du lịch và tòa nhà được chọn làm tiêu điểm để chia Ðặc Khu Columbia làm 4 khu vực, các phần tư của thành phố Washington, DC bắt đầu từ nơi đây.

Hạ Nghị Viện có 435 dân biểu, mỗi dân biểu đại diện cho một hạt bầu cử theo tỷ lệ dân số, có nhiệm kỳ 2 năm. Người đứng đầu Hạ Nghị Viện (gọi là Speaker) hiện nay (2010) là bà Nancy Pelosi (California đơn vị 8), là người đứng thứ 2 thay thế Tổng Thống sau Phó Tổng Thống (đồng thời cũng là Chủ Tịch Thượng Nghị Viện). Các dân biểu đại diện trong các vùng đông người Việt thuộc Orange County (California) là các ông bà Ed Royce (đơn vị 40), Joe Baca (43), Dana Rohnabacher (46), Loretta Sanchez (47), v.v... Người Việt duy nhất lọt được vào Hạ Nghị Viện là Josepth Cao ở đơn vị 2 Louisiana. Ở California cũng như Texas dù đông người Việt nhưng chưa có ai là dân biểu liên bang. Về Thượng Nghị Viện mỗi tiểu bang có 2 thượng nghị sĩ đại diện và không tính theo tỷ lệ dân số nên 50 tiểu bang có tổng cộng là 100 thượng nghị sĩ với nhiệm kỳ 6 năm. Hai thượng nghị sĩ của tiểu bang California là 2 phụ nữ đều thuộc đảng Dân Chủ là Barbara Boxer và Dianne Feinstein. Thành viên của 2 viện đều do dân chúng bầu cử trực tiếp, tuy nhiên tại một số tiểu bang thống đốc có quyền bổ nhiệm thượng nghị sĩ tạm thời khi có chỗ khuyết giữa nhiệm kỳ.

Lịch sử Ðiện Capitol

Ðiện Capitol hiện nay là cơ sở kiến trúc thứ tư được Quốc Hội Hoa Kỳ sử dụng, trước đó là Tòa Nghị Viện Maryland ở Annapolis, Maryland (1783-1784), kế đến là Federal Hall tại New York (1789-1790) và Independence Hall hay Congress Hall tại Philadelphia, Pennsylvania (1790-1800).

Ðiện Capitol đầu tiên nhỏ hơn kiến trúc hiện nay được bắt đầu xây dựng vào năm 1793. Chính Tổng Thống George Washington là người chọn địa điểm cũng như đặt viên đá góc và việc xây dựng được giao cho kiến trúc sư William Thornton người trúng giải thiết kế đồ án với giải thưởng thời đó là 500$. Cánh Thượng Nghị Viện (phía Bắc) được xây xong vào năm 1800 và phiên họp Quốc Hội đầu tiên được diễn ra tại đây vào ngày 17 tháng 11, 1800. Ðến năm 1811 mới hoàn tất phần cánh Hạ Nghị Viện, ngày nay lá quốc kỳ Mỹ được treo trên nóc cánh Hạ Nghị Viện phía Nam này. Tối Cao Pháp Viện cũng cùng sử dụng chung tòa nhà này cho đến khi xây xong tòa nhà riêng năm 1935 mới dời sang tòa nhà Tối Cao Pháp Viện hiện nay ở bên cạnh về hướng Ðông. Mới vừa xây xong xảy ra trận chiến với nước Anh năm 1812-1814, quân Anh tấn công thành phố Washington và đốt cháy nhiều tòa nhà trong đó có điện Capitol. Ðiện Capitol được tái thiết từ năm 1815 và kết thúc khoảng 1830.

Tòa Capitol được nới rộng thêm vào thập niên 1850 với kế hoạnh ban đầu là thuê mướn nhân công từ Âu Châu sang nhưng ít ai chịu sang Tân Thế Giới vì chuyện vượt biển thời ấy rất gian nan nguy hiểm nên cuối cùng phải dùng người gốc Phi Châu vừa nô lệ vừa nhân công tự do là lực lượng chính xây nên điện Capitol. Mái vòm đầu tiên nhỏ bé được xây năm 1818 bằng gỗ chỉ tương xứng với tòa nhà nhỏ lúc trước nay được chuẩn bị thay thế bằng mái vòm lớn hơn. Ông Thomas U. Walter trách nhiệm cho phần mở rộng và mái vòm mới bằng gang (iron) lớn gấp 3 cái cũ có đường kính 100 ft. (30m).

Ông phải sang Pháp vào năm 1838 để quan sát mái vòm của điện Les Invalides tại Paris để mô phỏng theo đó mà xây. Nhưng mái vòm mới của ông Walter là mái vòm đôi có những lỗ cửa kính lấy ánh sáng mặt trời. Ðến năm 1863 bức tượng khổng lồ có tên là tượng Tự Do được đặt trên chóp đỉnh mái vòm. Ðiện Capitol trước kia cổng chính quay về hướng Ðông sau khi gắn vòm mái mới đổi về hướng Tây nhìn ra dãy đất trống về hướng Tòa Bạch Ốc. Ban đầu tòa Quốc Hội định đặt tên là “Congress House” nhưng Thomas Jefferson đề nghị tên “Capitol” theo tiếng Latin có nghĩa là “thành phố trên đồi.”

Capitol Visitor Center

Buổi sáng chúng tôi cũng đi xe điện ngầm ra ở nhà ga Farragut West gần Bạch Cung rồi đi bộ ngang qua dãy cỏ xanh và hồ nước National Mall về hướng Ðông để đến điện Capitol tòa nhà Quốc Hội Hoa Kỳ. Thăm viếng điện Capitol hoàn toàn miễn phí không cần vé và hiện nay mới vừa xây xong khu tiếp đón du khách tức Capitol Visitor Center nên mọi người muốn viếng điện Capitol đều phải qua ngã đó. Ðầu tiên du khách phải vào cổng sau tức phía Ðông, ở giữa sân có cầu thang dẫn xuống, đến trước được vào trước chứ không cần lấy hẹn nên đôi khi du khách đông phải sắp hàng dài ngoài sân cỏ ra tận đường 1st Street East. Trước khi xuống tòa nhà phải qua cổng xét an ninh. Tòa nhà tiếp đón du khách Capitol Visitor Center này được khởi công năm 2000 và hoàn tất vào cuối năm 2008 với kinh phí là 621 triệu USD gồm có 3 tầng ở dưới đất rộng đến 580,000 sf (54,000m2) rộng gấp đôi tòa Capitol. Tòa nhà mở cửa từ 8 giờ 30 sáng đến 4 giờ 30 chiều từ Thứ Hai đến Thứ Bảy trừ những ngày lễ lớn như Tạ Ơn, Giáng Sinh, Ðầu Năm và Lễ Tổng Thống Tuyên Thệ.

Muốn viếng thăm những nơi khác của điện Capitol ngoài Visitor Center, du khách phải giữ chỗ trước vì những tour khám phá lịch sử điện Capitol rất đông người tham dự và hết chỗ rất mau. Muốn tham dự các tour có người hướng dẫn này, có vài cách để giữ chỗ. Nếu là người cư ngụ trên nước Mỹ có thể liên lạc qua các văn phòng của Dân Biểu (Representative) đơn vị mình hay qua văn phòng của Thượng Nghị Sĩ (Senators) tiểu bang mình tại địa phương cư ngụ hoặc giữ chỗ trực tiếp qua Capitol Visitor Center (số điện thoại (202) 226-8000. Tất cả các nơi trên có thể vào trang Web www.visitthecapitol.gov/Visit/ để ghi danh giữ chỗ trên Online và lấy số xác nhận (Confirmation Number). Tour tìm hiểu lịch sử điện Capitol bắt đầu ở rạp chiếu phim với một đoạn phim 13 phút mang tựa đề “Out of Many, One” được dịch từ tiếng Latin “E Pluribus Unum“sẽ đưa du khách vào một cuộc hành trình xuyên qua lịch sử tranh đấu của dân tộc Hoa Kỳ để thiết lập một thể chế dân chủ thật sự được xếp vào hạng nhất trên thế giới cũng như giới thiệu công trình kiến trúc đồ sộ là tòa nhà Quốc Hội Mỹ hiện nay.

Vào Visitor Center đầu tiên là đến đại sảnh Emancipation Hall là nơi du khách tập trung chờ đợi nếu tham dự các Tour vào xem trong điện Capitol. Ở đây có nhiều tượng của những nhân vật trong lịch sử Hoa Kỳ như Philo Farnsworth là người phát minh ra máy truyền hình, vua Kamehameha của đảo Hawaii. Ở đây cũng có những khoảng trống lợp kính để nhìn lên bầu trời thấy vòm mái tròn của Capitol. Vì không có giữ chỗ trước nên chúng tôi không có tham dự vào Tour khám phá lịch sử điện Capitol nhưng vào xem đoạn Video 13 phút “Out of Many, One” rồi vào Phòng Triển Lãm (Exhibitation Hall) ở tầng dưới nơi đây trình bày hình ảnh tài liệu về lịch sử Quốc Hội và tiến trình xây cất tòa nhà Capitol cũng như mô hình cao 11 feet của vòm mái tòa nhà. Nơi đây có màn ảnh thu hình nếu 2 viện Quốc Hội có phiên họp để du khách xem. Sau đó trở xuống tầng dưới chúng tôi đi xuyên qua Emancipation Hall một lần nữa để vào nhà hàng nghỉ chân và uống ly cà phê, nơi đây có bán nhiều loại thức ăn với 530 ghế ngồi. Muốn mua quà kỷ niệm chuyến viếng thăm điện Capitol, ở tầng trên 2 bên cánh gần cửa vào là các gian hàng bán các loại sản phẩm này.

Năm 1988 lần đầu đến thăm thủ đô Washington, DC chúng tôi có viếng điện Capitol, thời ấy chưa xây Visitor Center, bên trong phòng tiếp đón cũ nhỏ hơn chỉ đủ chỗ cho chừng 1,500 người. Nhằm cuối tháng 3, mùa Hội Hoa Anh Ðào, thời tiết còn rất lạnh, du khách vào xem điện Capitol rất đông phải đứng sắp hàng ngoài trời khiến nhiều cụ già run cầm cập. Bên trong Capitol chỉ có 5 phòng vệ sinh nhỏ dành cho du khách và không có nhà hàng bán thức ăn, chỉ có một quầy cà phê nhỏ. Nay với Visitor Center rộng lớn có thể chứa một lúc 4,000 người với các tiện nghi hiện đại cộng với phòng trưng bày không thua gì nhà bảo tàng về lịch sử Quốc Hội Hoa Kỳ. Dù không tham dự tour vào xem các phòng ốc bên trong, tôi cũng không tiếc nuối vì lần trước cũng có xem qua rồi, nhớ là được dẫn đến dưới mái vòm Rotunda, rồi đứng bên trên xem 2 nghị trường của Thượng và Hạ Nghị Viện, không có nhà bảo tàng lịch sử trình bày lớp lang, chi tiết như bây giờ. Rời tòa nhà Quốc Hội Capitol chúng tôi sang viếng tòa nhà Thư Viện Quốc Hội (Library of Congress) xem bên đó có gì?

Thư Viện Quốc Hội

Ở tầng trên của Visitor Center gần các quày lấy hẹn (Appointment Desk) chúng tôi bước xuống đường hầm để sang Thư Viện Quốc Hội (Library of Congress) tọa lạc trong tòa nhà lịch sử Thomas Jefferson Building ở phía sau (phía Ðông) của điện Capitol. Tòa nhà có 3 tầng lầu ở giữa cũng có một mái vòm bị nhiều người chỉ trích là muốn “cạnh tranh” với mái vòm của tòa nhà Quốc Hội vì những tác phẩm nghệ thuật bên trong của nó. Thư Viện Quốc Hội phải mất tới 11 năm để xây cất và mở cửa cho công chúng vào ngày 1 tháng 11, 1897. Ngay sau khi hoàn thành đã được xem như là danh thắng quốc gia (national monument) vì tính cách đồ sộ và nguy nga của nó. Lý do phải xây thư viện này theo lời vị quản thủ thư viện lúc đó là Ainsworth Rand Spofford: cần phải có nơi rộng hơn để chứa văn kiện, sách vở, tài liệu sưu tầm, lưu trữ vì thư viện cũ nằm trong điện Capitol không đủ chỗ. Ông cho biết cần phải có một tòa nhà riêng biệt để làm Thư Viện Quốc Gia. Ðược biết là sau khi Quốc Hội ban hành luật bảo vệ bản quyền Copyright Law 1870 đòi hỏi người muốn xin phép đăng ký tác quyền phải nộp cho Thư Viện Quốc Hội 2 bản sao công trình sáng chế hay sáng tác của họ thành thử thư viện tràn ngập hàng đống sách vở, tài liệu kỹ thuật, bản vẽ, nhạc phẩm, hình ảnh, v.v... cần phải có nơi lưu trữ để thực thi đạo luật vừa ban hành.

Ngày trước tòa nhà chỉ đơn giản được gọi là Thư Viện Quốc Hội cho đến ngày 13 tháng 6, 1980, được đổi tên để vinh danh vị tổng thống Hoa Kỳ là Thomas Jefferson, ông là một trong những người vận động thành lập thư viện vào đầu những năm 1800. Sau khi quân Anh tấn công thủ đô Washington và đốt tòa nhà Capitol vào năm 1814, ông đã bán tượng trưng gần hết bộ sách sưu tầm cho Thư Viện Quốc Hội.

Phòng đọc sách chính của Thư Viện Quốc Hội với trần nhà cao rộng, bàn ghế toàn bằng gỗ quý cổ xưa, các gian đại sảnh như Great Hall trưng bày những bức tranh lớn vẽ trên tường, trên trần nhà rất nguy nga, lộng lẫy không thua gì viện bảo tàng Louvre ở Paris. Vào tòa nhà Thomas Jefferson Thư Viện Quốc Hội có cảm giác như lạc vào cung điện bên Âu Châu.

Trịnh Hảo Tâm

medium_DSC2101.jpg

Tiền diện phía Bắc của Tòa Bạch Ốc.

medium_DSC2102.jpg

Sân cỏ phía Nam của Tòa Bạch Ốc.

medium_DSC2103.jpg

Tượng Tổng Thống thứ 7 Hoa Kỳ Andrew Jackson trong công viên Lafayette phía Bắc Bạch Cung.

medium_DSC2104.jpg

Dưới trạm xe điện ngầm ở Washington, DC.

medium_DSC2105.jpg

Một ngôi nhà ở Arlington, ngoại ô thủ đô Washington DC.


Tòa Bạch Cung hay còn gọi là Bạch Ốc (Nhà Trắng) là nơi cư ngụ và làm việc của Tổng Thống Hoa Kỳ. Tọa lạc ở số 1600 Pennsylvania Avenue NW ở Washington, DC, Tòa Bạch Cung được thiết kế bởi kiến trúc sư người Ái Nhĩ Lan (Ireland) tên James Hoban, được xây từ năm 1792 đến 1800 theo kiểu Georgian và được sơn trắng. John Adams là tổng thống đầu tiên vào cư ngụ trong Bạch Cung từ ngày 1 tháng 11, 1800.

Ði xe điện Amtrak từ New York về đến nhà ga Union Station của thủ đô Washington, DC, chúng tôi được người bạn thân thời còn trung học ra đón và lái xe đưa về nhà ở phía bên kia sông Potomac thuộc thành phố Arlington, Virginia. Nhà bạn ở gần trạm xe điện ngầm Clarendon trên một con đường vắng ăn thông ra đại lộ Wilson Boulevard là con đường huyết mạch nối thủ đô Washington, DC với khu thương mại Việt Nam Eden thuộc thành phố kế cận là Falls Church.

Tắm táp qua loa xong, bạn tôi rủ ra nhà hàng anh ta gần nhà để ăn tối. Nhà hàng chỉ một căn nhưng ấm cúng lịch sự, buổi tối toàn là khách người Mỹ. Anh ta có trí nhớ rất dai, gặp một người nhớ tên, nhớ mặt, đôi khi nhớ cả ngày sinh nhựt. Khách Mỹ đến một lần, lần thứ hai trở lại là anh gọi đúng tên. Khách đến tổ chức tiệc sinh nhật, anh ta ghi sổ năm sau gởi thiệp mừng sinh nhật đến nhà khách, khách nào mà không trở lại? Ăn tối tiệc sinh nhật đông người, nhà hàng tặng bánh sinh nhật, xâm banh, đèn cầy, khách người Mỹ rất lấy làm cảm động, lần sau đưa thêm bạn bè cùng tới! Anh ta cho biết khách Mỹ dễ dãi và rộng rãi, thí dụ khách gọi món gỏi cuốn, đưa ra nhầm món bì cuốn, khách không phàn nàn (chắc không phân biệt được hai món khác nhau) lại để “tip” rất hậu hĩ. Tiếp khách Mỹ cần phải khá tiếng Anh, nhà hàng một cô mặc áo dài đón khách, đưa vào bàn và ghi những món khách đặt (order), cô ngồi thu tiền cũng áo dài lịch sự còn bạn tôi thắt cà vạt chuyên đi lòng vòng tiếp khách và điều động nhân viên. Ngoài tiếp đón thân mật niềm nở, một chuyện quan trọng khác là nhà vệ sinh phải thật sạch vì khách nghĩ rằng nhà vệ sinh sạch là bếp núc, thức ăn đều sạch mặc dù hai thứ sau khách ít khi vào xem. Ðó là những bí quyết thành công trong nghề làm nhà hàng Việt Nam ở thủ đô Hoa Thịnh Ðốn của anh ta.

Sáng hôm sau cũng ra tiệm ăn của bạn làm một tô hủ tiếu “Lam Vang” và nhấm nháp một ly cà phê sữa. Hồi xưa độc thân hai chúng tôi sống chung với nhau ở Sài Gòn, biết tính tôi thích cà phê đậm, bạn tôi pha cho một tách cà phê thật đen, ít sữa đặc và không đường, đúng gu cà phê sữa ở bến Ninh Kiều ngày trước, khác với cà phê “xây bạt xĩu” là ly sữa bỏ chút cà phê. Xong xuôi đâu đó hai vợ chồng tôi sẽ sang bên Washington, DC rong chơi một vài nơi đến chiều mới về. Chỗ ngủ có nhà bạn, ăn uống thì ghé nhà hàng của bạn, cứ theo thực đơn mà kêu, còn đi chơi thì dùng xe điện ngầm.

Hệ thống xe điện ngầm ở Washington, DC

Hệ thống xe điện ngầm ở Washington, DC hoạt động từ 1976, hiện nay (2010) có 5 tuyến đường tỏa ra đi khắp 9 hướng với 86 trạm xe và tổng chiều dài đường rây 106.3 mile (171.1 km). Ðây là hệ thống xe điện ngầm lớn thứ nhì trên nước Mỹ chỉ sau New York, trong năm 2008 có đến 215.3 triệu người sử dụng hệ thống giao thông này, tính trung bình mỗi ngày có 727,684 lượt người đi. Hệ thống xe điện ngầm ngoài phục vụ hữu hiệu trong vùng trung tâm thủ đô lại còn kéo dài sang các quận lân cận của 2 tiểu bang Virginia và Maryland với 5 tuyến đường màu Ðỏ, Lục, Cam, Vàng, Xanh, hiện đang xây tuyến màu Bạc (Silver Line) sẽ hoàn tất năm 2013 với 11 trạm mới được thêm vào hệ thống hiện có. Hệ thống có 50 miles (80 km) đường ngầm dưới mặt đất trong những vùng trung tâm thủ đô đông đúc nhà cửa với 47 trạm xe ngầm, số còn lại ở vùng ngoại ô, đường xe điện và nhà ga đều ở trên mặt đất. Trạm chính ở trung tâm thủ đô là trạm Metro Center nơi có 3 đường xe Ðỏ, Cam và Lục gặp nhau là trạm bận rộn nhất. Những nơi người Việt chúng ta hay lui tới như Thương Xá Eden ở Falls Church, Chợ Tàu và những địa điểm du lịch ở khu trung tâm đều có đường xe điện ngầm đi qua rất thuận tiện, vừa nhanh chóng, vừa rẻ tiền hơn là đi Taxi.

Từ nhà hàng ở Arlington, chúng tôi xuống trạm Clarendon nằm trên tuyến xe màu Cam chạy theo hướng Ðông Tây và cũng có đi ngang qua trạm xe chính Metro Center. Chúng tôi mua vé đi nguyên ngày cho rẻ tiền, muốn đi đâu trong 5 tuyến xe đều được. Ngày thường xe điện hoạt động từ 5 giờ sáng cho đến nửa đêm (riêng đêm Thứ Sáu và Thứ Bảy đến 3 giờ sáng) và Thứ Bảy, Chủ Nhật xe chạy từ 7 giờ sáng (muốn biết thêm chi tiết có thể vào www.wmata.com). Ðịa điểm đầu tiên chúng tôi tới là Tòa Bạch Cung, sau khi qua 3 trạm xe chúng tôi ra ở trạm Farragut West gần ngã tư I Street NW và 17th Street NW cách Tòa Bạch Ốc 2 block đường về hướng Bắc. Nơi đây rất đông du khách mặc dù hiện nay không được vào thăm viếng Tòa Bạch Ốc theo từng đoàn như những năm trước biến cố 11 tháng 9, 2001 nhưng du khách có thể vào chơi các công viên xanh tươi ở phía Bắc và Nam Tòa Bạch Ốc, nơi đây có những xe bán thức ăn và giải khát cũng như có hình tổng thống bằng giấy cứng để du khách đứng cạnh chụp hình.

Tòa Bạch Ốc

Tòa Bạch Ốc được xây dựng sau khi Quốc Hội quyết định thành lập Ðặc khu Columbia và chọn nơi đây làm thủ đô Hoa Kỳ ngày 16 tháng 7, 1790. Tổng thống đầu tiên George Washington cùng với kỹ sư Pierre L'Enfant, người trách nhiệm thiết kế thành phố Washington đã chọn địa điểm này. Người vẽ đồ án tòa nhà là James Hoban người đảo Ái Nhĩ Lan (kế Anh Quốc) nên ông lấy kiểu dinh thự của một công tước ở Dubin, Ái Nhĩ Lan là tòa nhà Leinster (nay là tòa nhà Quốc Hội Ái Nhĩ Lan) để vẽ kiểu Tòa Bạch Ốc. Công việc xây dựng tiến hành chậm chạp mất 8 năm vì lúc đầu định tuyển mộ nhân công từ Âu Châu sang nhưng ít ai chịu đi sang một vùng đất mới hoang vu nên phải quay trở lại tìm nhân công địa phương là những người Mỹ gốc Phi Châu là những người nô lệ vì 2 tiểu bang nhượng đất thành lập Ðặc khu Columbia là Virginia và Maryland vẫn còn chủ trương duy trì nô lệ. Phí tổn xây Tòa Bạch Ốc tốn $232,371.83 thời ấy tương đương với $2.4 triệu ngày nay. Lúc ban đầu tòa nhà đơn giản, phần tiền diện ở phía Bắc nhìn ra đường Pennsylvania, cổng sau nhìn ra đường Constitution như ta thấy ngày nay chỉ được xây thêm vào năm 1825 cũng như chưa có hai dãy nhà ở cánh Ðông và Tây như hiện nay.

Năm 1814 trong cuộc chiến tranh với người Anh, quân Anh tấn công Washington và thiêu rụi nhiều tòa nhà chính quyền trong đó có Tòa Bạch Ốc. Binh lính Anh đốt cháy tòa nhà chỉ còn trơ trọi những bức tường đen đúa và lấy đi nhiều tài sản quý giá, sau này người ta tìm lại được 2 món là bức tranh chân dung George Washington được Ðệ Nhất Phu Nhân Dolley Madison mang ra ngoài và một hộp nữ trang của gia đình Tổng Thống Franklin Roosevelt do một người Canada hoàn trả năm 1939. Người này nói ông nội của ông đã lấy hộp này từ Washington nay trả lại cho Washington. Sau khi đốt phá thành phố, binh linh Anh rút về Halifax (trên đảo Nova Scotia phía Ðông Canada) và đoàn tàu đã bị bão tố đánh chìm ngoài khơi Prospect nên những tài sản cướp được cũng chìm dưới đáy biển đến nay vẫn chưa biết vị trí để thu hồi lại.

Tòa Bạch Ốc đã được tu sửa nhiều lần dưới nhiều đời tổng thống, vào đầu 1900 kiến trúc phụ ở Cánh Tây được xây thêm để làm văn phòng cho số lượng nhân viên ngày càng gia tăng. Nơi đây có văn phòng tổng thống gọi là Phòng Bầu Dục cũng như phòng họp nội các. Kế cận là tòa nhà Eisenhover sát phía đường bên ngoài vòng rào là ban nhân viên thuộc Phủ Tổng Thống làm việc. Ở dãy nhà Cánh Ðông hiện là văn phòng của Ðệ Nhất Phu Nhân cũng như ban nhân viên của bà được xây thêm vào năm 1942. Xây vào thời kỳ Ðệ Nhị Thế Chiến đầu tiên với mục đích che giấu các công sự phòng thủ xây bên dưới để chuẩn bị cho những tình huống khẩn cấp. Tòa Bạch Ốc mới nhìn vào người ta tưởng nó chỉ có một hoặc hai tầng nhưng thật ra nó có đến 6 tầng tất cả. Ngôi nhà chính có tầng trệt và 3 tầng lầu bên trên cũng như 2 tầng hầm phía dưới với diện tích tổng cộng 5,100 m2 (55,000 sq ft). Có tất cả 132 phòng và 35 phòng tắm, 8 cầu thang, 3 thang máy, có sân quần vợt, rạp chiếu phim, hồ bơi, đường chạy bộ, sân chơi bowling v.v...

Ðến đời Tổng Thống Jefferson mở cửa cho công chúng vào xem tòa nhà theo từng đoàn và thông lệ này được duy trì cho đến những năm sau này. Sau ngày khủng bố tấn công New York, 11 tháng 9, 2001, Tòa Bạch Ốc đóng cửa không cho dân chúng vào xem nữa. Hiện nay muốn vào xem phải ghi danh trước ít nhất 6 tháng và sẽ được thông báo cho biết ngày giờ vào xem và cũng đi theo từng đoàn.

Chúng tôi còn đi nhiều nơi nữa trên những khu phố quanh Tòa Bạch Ốc cho đến chiều lên xe trở về nhà bạn. Nhà không có ai vì hai vợ chồng bạn ở ngoài nhà hàng. Nghỉ ngơi cho khỏe rồi chúng tôi kéo ra nhà hàng ngồi nói chuyện xưa và ăn tối. Cơm xong thấy anh ta bận rộn khách khứa, chúng tôi lang thang đi bộ vừa ngắm cảnh ngoại ô thủ đô vừa đi thể thao luôn thể. Con đường Wilson tuy gọi là “Boulevard” tiếng Việt thường dịch ra là “Ðại Lộ” nhưng đây không phải là con đường rộng lớn mà là con đường dài xuyên qua nhiều thành phố. Ðoạn đường ở đây gần nhà ga Metro Clarendon nên có rất nhiều tiệm ăn, quán cà phê có những nơi bày bàn ghế ra vỉa hè trông cũng có nét Âu Châu. Chiều tối nên khách bộ hành tan sở lên xuống ga cũng đông đảo, nếu không có tấm bảng đen đề chữ “Metro” khó biết bên dưới là nhà ga. Qua những khu nhà ở, trên những con đường nhỏ nhiều cây cối, thấy nhà nơi đây toàn nhà lầu 2 tầng và phía dưới bao giờ cũng có tầng hầm (basement). Tường bên ngoài nhà nào cũng xây bằng gạch nung đỏ và mái lợp ngói có độ dốc cao để chống tuyết. Ban đêm thấy những đóm sáng bay bay tôi tưởng mắt mình có triệu chứng hào quang hay đom đóm gì đó nhưng hỏi vợ tôi thì bà cũng thấy như vậy. Hóa ra đó là những con đom đóm thật, hơn 30 năm ở Mỹ sống trong vùng Nam Cali không thấy đom đóm bao giờ nên tôi tưởng xứ Mỹ không có những con đó và không biết trong tiếng Anh gọi là gì, lật tự điển ra mới biết tiếng Mỹ gọi là “fire-fly.” Ở Việt Nam đom đóm ngày xưa mang nhiều kỷ niệm tuổi học trò:

“Khi đêm sang đom dóm đong đưa,

giờ nàng đã ngủ chưa?

Ði lang thang khuya lắc khuya lơ,

đèn nhà ai tắt sớm.

Gom suy tư thao thức đêm khuya,

chàng bèn viết lá thư.

Hai hôm sau mới dám đưa thư,

nàng nhận nhưng làm thinh.”

(Nhạc phẩm “Gặp Nhau Làm Ngơ” của Trần Thiện Thanh)

Trịnh Hảo Tâm

medium_DL_DSC2001_Capitol.jpg

Ðiện Capitol trụ sở hai viện Quốc Hội ở Washington, D.C.

medium_DL_DSC2002_Eisenhower.jpg

Tòa kiến trúc Eisenhower, nét Âu Châu cổ kính.

medium_DL_DSC2003_Tidal.jpg

Hoa đào ở ven hồ Tidal Basin.

medium_DL_DSC2004_UnionStation.jpg

Nhà ga Union Station ngay phía Bắc điện Capitol.

medium_DL_DSC2005_Amtrak1.jpg

Trên xe điện Amtrak từ New York xuống Washington, D.C.


Washington, D.C. có tên Hán Việt là Hoa Thịnh Ðốn, là thủ đô của Hoa Kỳ nằm ở vùng phía Ðông giáp với Ðại Tây Dương là một trong những địa điểm du lịch được ưa chuộng nhất nước Mỹ vì nơi lưu dấu lịch sử với nhiều nhà bảo tàng, đài kỷ niệm quốc gia và những kiến trúc to lớn là cơ quan chính quyền Hoa Kỳ như tòa nhà lập pháp Capitol, Bạch Cung v.v... Là một quốc gia dân chủ nên những dinh thự dù là cơ quan nhà nước cũng mở rộng cửa đón dân chúng và du khách vào thăm viếng.

Rời thành phố “trái táo to” New York chúng tôi đi Washington, D.C. bằng xe điện Amtrak sau khi từ giã hai đứa cháu gọi bằng cậu ngày xưa đã cùng thuyền với tôi rời khỏi đất nước. Hai cháu sau khi lái xe đưa chúng tôi vào nhà ga Penn Station sẽ trở về New Haven, Connecticut, nơi ngày xưa tôi cũng đã từng ở, đổ mồ hôi nhọc nhằn trong những tháng đầu đến nước Mỹ. Vào nhà ga mua vé đi liền trong chuyến sớm nhất, rất may cũng có chỗ cho 2 vợ chồng chúng tôi, nếu cẩn thận hơn theo lối người Mỹ họ thường đặt vé trước qua số điện thoại 1-800-USA-RAIL hay qua trang mạng của Amtrak (www.amtrak.com). Mua vé xe điện qua trang mạng cũng tương tự như mua vé máy bay, chỉ cần nhận số đã đặt vé gọi là “Reservation Number” rồi vào nhà ga sẽ đánh số vào máy để lấy vé lên tàu điện. Nếu đặt vé trước ngày đi một thời gian xa, Amtrak có thể gởi vé đến địa chỉ mình yêu cầu. Ðây là lần đầu tiên chúng tôi đi xe điện Amtrak một công ty lớn nhất về chuyên chở hành khách bằng đường sắt của Hoa Kỳ có mặt trên 46 tiểu bang với 500 nhà ga nên có nhiều điều hơi bỡ ngỡ.

Từ New York đi Washington, D.C. rất đông hành khách nhất là vào buổi sáng như hôm nay vì đây là phương tiện di chuyển nhanh chóng và tiện lợi giữa 2 thành phố quan trọng nhất nước Mỹ. Trên bảng lịch trình những chuyến tàu hôm nay, thấy chuyến đầu tiên khởi hành lúc 3 giờ sáng và chuyến tàu chót trong đêm là 10 giờ và cứ khoảng 1 tiếng đồng hồ có 1 chuyến xe đi. Từ New York đi Washington, D.C. đường dài khoảng 237 miles, có 2 loại xe điện là loại xe chậm là Northeast Regional chạy mất 3 tiếng 35 phút và loại tốc hành Acela Express chỉ mất 2 giờ 47 phút giá vé cao hơn. Xe nào cũng ngừng 5 phút ở các ga Newark, Metropark, Trenton, Philadelphia, Wilmington, Baltimore trước khi tới Washington, D.C. và ngừng ở nhà ga Union Station. Hành lý xách tay được 2 món dưới 50 lbs (23 kg) và hành lý gởi theo được 3 món và gởi nửa tiếng trước khi xe khởi hành.

Nhân viên bán vé ân cần niềm nở cho biết giá vé là $74 và chúng tôi có thể khởi hành ngay trong 20 phút nữa. Ông ta xem bằng lái xe, lấy tên họ rồi trao vé sau khi chỉ dẫn đường đến thềm ga (platform) của chuyến tàu. Ðến thềm ga thì xe điện đã nằm ở đó và hành khách lần lượt lên tàu. Xe điện Amtrak ở đây chỉ có 8 toa tàu và bên trong mỗi hàng có 4 ghế nệm rộng rãi với lối đi ở giữa như trên máy bay. Mỗi ghế phía trước có cái khay nhựa bật xuống để thức ăn hay máy vi tính xách tay và bên trên là hàng kệ để hành lý không có nấp đậy (trên phi cơ có nấp đóng lại để hành lý không rơi xuống mỗi khi phi cơ gặp “turbulence” là lớp không khí loãng khiến máy bay bị dằn xốc). Trên toa tàu số ghế trống còn nhiều khoảng phân nửa, có lẽ chuyến tàu 9 giờ sáng này đã qua giờ cao điểm của hành khách.

Xe điện êm ái rời khỏi khu Manhattan đông đúc nhà cửa và chui xuống đường hầm vượt qua sông Hudson đi về hướng Tây Nam. Vài mươi phút sau ngừng ở ga Newark để lấy thêm hành khách từ phi trường quốc tế Newark. Hơn một giờ nữa tới thủ đô Trenton của tiểu bang New Jersey, thành phố nằm bên cạnh sông Delaware cũng là biên giới với tiểu bang Pennsylvania. Ðộ 45 phút đến Philadelphia là thành phố lớn thứ nhì ở bờ Ðông nước Mỹ từng là thủ đô của Hoa Kỳ trước khi thành lập Washington, D.C.. Ở nhà ga này hành khách lên thêm rất đông trám vào các ghế trống khiến toa tàu gần đầy. Sau đó đến Wilmington của tiểu bang nhỏ bé Delaware và thành phố Baltimore thuộc Maryland nơi đây chỉ cách Washington, D.C. 35 miles. Nửa giờ sau tàu tới ga Union Station nằm ở phía Bắc của điện Capitol và cách tòa nhà lập pháp có nóc tròn này hơn 1 km.

Ga Union Station trần cao to lớn có trạm xe điện ngầm để đi về các vùng khác trong thủ đô nhưng tôi được người bạn thân từ hồi còn trung học ở Trà Vinh ra đón. Hiện anh chàng là chủ nhân 2 nhà hàng Việt một ở Arlington và một ở phía Bắc Washington, D.C.. Chúng tôi lên xe để về nhà bạn cũng ở Arlington về phía Tây bên kia sông Potomac. Trên đường về nhà anh chàng lái xe dọc theo đại lộ Constitution để chúng tôi nhìn ngắm tòa nhà Capitol, dãy công viên National Mall với hồ nước, hoa cỏ xanh tươi hai bên là những viện bảo tàng nghệ thuật, lịch sử, viện Smithsonian, nhọn tháp bút chì bằng đá trắng Washington Monument, phía Bắc là tòa Bạch Cung. Cuối đường bắc thẳng vào xa lộ 66 qua cầu Theodore Roosevelt trên sông Potomac để về Arlington. Trên cuộc hành trình vòng nước Mỹ và Canada, cuối cùng cũng đặt chân đến thủ đô Hoa Thịnh Ðốn.

Thủ đô được thành lập vào ngày 16 tháng 7, 1790, có tên chính thức là Washington, District of Columbia, có nghĩa là thành phố Washington nằm ở trong Ðặc Khu Columbia để phân biệt với tiểu bang Washington ở bờ biển miền Tây Hoa Kỳ. Theo Hiến Pháp Hoa Kỳ để có tính cách độc lập với các tiểu bang, thủ đô phải được đặt trong một đặc khu liên bang riêng biệt không phụ thuộc vào một tiểu bang nào. Nếu Washington, D.C. được xem là một tiểu bang thì về diện tích sẽ là tiểu bang nhỏ nhất trong nước Mỹ.

Trong thủ đô Washington, D.C. có tòa nhà Quốc Hội Hoa Kỳ tức điện Capitol là cơ quan lập pháp theo mô hình lưỡng viện vì vậy nơi đây là trụ sở của Hạ Nghị Viện (House of Representatives) và Thượng Nghị Viện (Senate). Hạ Nghị Viện có 435 dân biểu, mỗi dân biểu đại diện cho một hạt bầu cử theo tỷ lệ dân số có nhiệm kỳ 2 năm. Về Thượng Nghị Viện mỗi tiểu bang có 2 thượng nghị sĩ đại diện và không tính theo tỷ lệ dân số nên 50 tiểu bang có tổng cộng là 100 thượng nghị sĩ với nhiệm kỳ 6 năm. Thành viên của 2 viện đều do dân chúng bầu cử trực tiếp, tuy nhiên tại một số tiểu bang thống đốc có quyền bổ nhiệm thượng nghị sĩ tạm thời khi có chỗ khuyết giữa nhiệm kỳ. Ở thủ đô Washington, D.C. còn có Dinh Tổng Thống tức nhà trắng Bạch Cung là nơi Tổng Thống Hoa Kỳ cư ngụ và làm việc cũng như văn phòng tất cả các bộ chuyên môn trong nội các chính phủ dưới quyền điều khiển của tổng thống là người đứng đầu ngành hành pháp. Về tư pháp ở thủ đô Washington, D.C. có trụ sở của Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ (Supreme Court of the United States) có 9 thành viên được bổ nhiệm bởi tổng thống sau khi được Quốc Hội phê chuẩn và thành viên Tối Cao Pháp Viện có nhiệm kỳ trọn đời.

Thành phố Washington ban đầu là một đô thị tự quản riêng biệt bên trong lãnh thổ Columbia cho đến năm 1871 một đạo luật của Quốc Hội Hoa Kỳ sát nhập thành phố và lãnh thổ làm một thực thể hành chánh duy nhất gọi là Ðặc Khu Columbia. Ðặc khu Columbia ban đầu Quốc Hội ấn định lãnh thổ có hình vuông mỗi cạnh dài 100 miles nên có diện tích là 100 dặm vuông (square mile) hay 260km2 nhưng sau này vào năm 1846 phải trao trả lại cho tiểu bang Virginia phần đất phía Nam nên hiện nay diện tích chỉ còn lại 68.3 dặm vuông hay 177km2 với dân số 591,833 người tuy nhiên vì nhiều người từ vùng ngoại ô thuộc các tiểu bang chung quanh di chuyển ra vào làm việc nên hàng ngày có dân số trên 1 triệu người. Nếu tính các thành phố ngoại ô lân cận vùng thủ đô Washington, D.C. có dân số lên đến 5.3 triệu người là vùng đô thị lớn thứ 8 ở Hoa Kỳ.

Lịch sử thủ đô Washington, D.C.

Theo nhật ký của những nhà thám hiểm người Âu đến sông Potomac là nơi ngày nay thành phố Washington, D.C. tọa lạc vào thế kỷ 17, đã thấy những người da đỏ bộ tộc Algonquia sinh sống ở đây. Ðầu thế kỷ 18 phần lớn người da đỏ đã rời bỏ khu vực này khi thấy có đông người Âu Châu đến mua bán da thú để đem về nước làm y phục. Năm 1751 thị trấn Georgetown được tiểu bang Maryland chấp thuận cho thành lập thành phố bên bờ Bắc sông Potomac. Goergetown 40 năm sau trở thành Washington, D.C. là một phần lãnh thổ của Ðặc Khu Columbia. Thành phố Alexandria (hiện thuộc tiểu bang Virginia) nằm về phía Nam bên kia sông được thành lập trước đó vào năm 1749, ban đầu cũng nằm trong đặc khu. Trong diễn văn đọc ngày 23 tháng 1, 1788, ông James Madison (sau đó trở thành Tổng Thống thứ 4 của Hoa Kỳ từ 1809 đến 1817) đã nêu lên sự cần thiết của một đặc khu liên bang. Madison cho rằng thủ đô của quốc gia cần phải là một nơi riêng biệt không thuộc vào bất cứ tiểu bang nào để dễ dàng quản lý và gìn giữ an ninh. Hai năm sau, Ðạo Luật Ðịnh Cư (Residence Act) được Quốc Hội ban hành đã thành lập một thủ đô mới vĩnh viễn đặt trên bờ sông Potomac, ngay tại khu vực mà Tổng Thống George Washington đã chọn lựa. Như đã được Hiến Pháp Hoa Kỳ cho phép, hình dạng ban đầu của đặc khu liên bang là một hình vuông mỗi cạnh dài 10 dặm Anh (tức Mile bằng 16 km) và một “thành phố liên bang” sau đó được xây dựng trên bờ Bắc sông Potomac kéo dài từ Georgetown sang phía Ðông. Ngày 9 tháng 9, 1791, thành phố liên bang được đặt tên là Washington để vinh danh tổng thống đầu tiên của Hoa Kỳ được xem như quốc phụ của nước Mỹ và là người lãnh đạo cuộc cách mạng giành độc lập từ tay người Anh. Năm 1800 thủ đô Hoa Kỳ từ Philadelphia (tiểu bang Pennsylvania) được dời về Washington. Vào ngày 24 và 25 tháng 8, 1814, quân Anh tấn công Washington và đốt phá tòa nhà Quốc Hội, tòa Bạch Ốc và Bộ Ngân Khố Hoa Kỳ để trả đũa vụ quân Mỹ trước đây đã từng đốt phá thành phố York của họ tức Toronto bên Canada ngày nay.

Ðạo luật tổ chức Ðặc Khu Columbia năm 1801 đưa các thành phố Washington, Goergetown và Alexandria đặt dưới sự kiểm soát đặc biệt của Quốc Hội Hoa Kỳ còn các vùng đất chung quanh tuy nằm trong đặc khu nhưng chưa chịu hợp nhất được tổ chức thành 2 quận: Quận Washington trên bờ phía Bắc sông Potomac, và quận Alexandria trên bờ Nam. Cũng theo đạo luật này các công dân sống trong đặc khu đó không còn được xem là cư dân của Maryland hay Virginia nữa vì thế họ không được đi bầu để chọn đại diện của mình tại Quốc Hội. Từ đó cư dân trong đặc khu tranh đấu nhưng mọi nỗ lực đều thất bại trong việc giành lấy đủ sự ủng hộ cho đến thập niên 1830 khi quận Alexandria lâm vào suy thoái kinh tế mà Quốc Hội thờ ơ không trợ giúp gì được. Năm 1840 dân chúng bất mãn đòi trao trả lãnh thổ Alexandria về cho tiểu bang Virginia. Virginia lúc đó muốn duy trì chế độ nô lệ nên đồng ý việc lấy lại quận Alexandria để có thêm 2 đại diện ủng hộ chế độ nô lệ trước Quốc hội và đến 1846 lãnh thổ đặc khu nằm về phía Nam sông Potomac được trao trả về cho tiểu bang Virginia như hiện nay (sau này lập thêm thành phố Arlington trên lãnh thổ này).

Chế độ nô lệ rốt cuộc không giải quyết được tại Quốc Hội vì đa số các tiểu bang miền Nam nơi có nhiều đồn điền cần nhân công để làm việc nên xảy ra cuộc Nội Chiến Bắc Nam từ 1861 đến 1865 mới chấm dứt sau khi phe miền Nam đầu hàng, và Tổng Thống Lincoln bị ám sát chết. Trước đó ông chủ trương giải phóng nô lệ và ký đạo luật giải phóng và bồi thường nô lệ, nội trong Ðặc Khu Columbia có khoảng 3,100 người bị cầm giữ làm nô lệ được tự do. Năm 1870 dân số đặc khu tăng lên đến 132,000 người, mặc dù phát triển nhưng thành phố Washington vẫn còn các con đường đất lầy lội và thiếu nền tảng vệ sinh căn bản đến nỗi có một số thành viên Quốc Hội đề nghị di chuyển thủ đô đến một nơi khác.

Bằng một đạo luật năm 1871 tổ chức lại đặc khu kết hợp các thành phố Washington, Georgetown và quận Washington lại thành một đô thị tự quản. Mặc dù thành phố Washington đã chính thức kết thúc sau năm 1871 nhưng tên của nó vẫn được sử dụng và biết đến rộng rãi dưới tên mới là Washington thêm 2 chữ “D.C.” phía sau. Cùng trong đạo luật năm 1871, Quốc Hội cũng bổ nhiệm một ban công chánh để lo việc hiện đại hóa thành phố. Năm 1873 Tổng Thống Grant bổ nhiệm một thành viên trong ban là Alexander Shepherd vào vị trí thống đốc mới, ông này chi ra 20 triệu đô la thời ấy (tương đương 357 triệu năm 2007) vào ngân quỹ xây dựng thành phố nhưng cũng khiến cho thành phố bị phá sản. Năm 1874, Quốc Hội bãi bỏ văn phòng của Shepherd để trực tiếp quản lý. Các kế hoạch chỉnh trang thay đổi thành phố cũng không được thực hiện cho đến khi có kế hoạch McMillan năm 1901. James McMillan là thượng nghị sĩ được giao làm đẹp phần trung tâm nghi lễ thành phố tức phần đất National Mall kéo dài từ điện Capitol đến tháp bút chì Washington Monument.

Ngày xưa khi mới thành lập, thành phố Washington đã được kỹ sư người Pháp là Pierre Charles L'Enfant thiết kế quy hoạch và tiêu đề của ông này là tạo thành một “Paris của nước Mỹ” với đường sá rộng rãi, hội tụ về những quảng trường hình tròn hay chữ nhật làm nơi tập hợp dân chúng theo kiểu các thành phố Âu Châu. Ngày nay diện mạo thủ đô Washington, D.C. đường sá rộng rãi thoáng mát với nhiều quảng trường phảng phất kiểu dáng Âu Châu cũng là nhờ công của người chỉnh trang đô thị ban đầu.

Hôm nay trên bước giang hồ chúng tôi đến thủ đô Hoa Thịnh Ðốn, nơi mùa Xuân có hoa anh đào, mùa Hè Lễ Ðộc Lập có pháo bông, mùa Thu rừng phong lá đỏ và Ðông sang tuyết băng phủ kín mọi con đường. Tôi có nhiều bạn bè, độc giả thân thương, đồng hương, đồng môn, thầy cũ ở đây, để từ từ rồi sẽ viếng thăm, hứa hẹn biết bao điều thú vị.

Trịnh Hảo Tâm

medium_DSC1801.jpg

Tòa nhà Di Trú nơi tiếp đón di dân ngày xưa trên đảo Ellis

medium_DSC1802.jpg

Cổng chính vào Viện Bảo Tàng Di Dân trên đảo Ellis

medium_DSC1803.jpg

Công viên Central Park ngay giữa trung tâm Manhattan

medium_DSC1804.jpg

Công trường Times Square khu phố về đêm của New York

medium_DSC1805.jpg

Những xe bán thức ăn trên đường phố New York


New York là thành phố đông dân và lớn nhất Hoa Kỳ đồng thời cũng là thủ đô của thế giới về chứng khoán, thương mại, tài chánh, văn hóa, thời trang và giải trí. New York được người Mỹ thân ái gọi là “Quả Táo Lớn” (Big Apple) nhưng không hiểu rõ nghĩa là gì chỉ biết tên ấy do ký giả thể thao John Fitz Gerald viết trên tờ New York Morning Telegraph khoảng 1920 mãi đến thập niên 1970 tên gọi “Big Apple” mới được thông dụng. New York ngày xưa là cửa ngõ chào đón di dân tìm đời sống mới nên nơi đây đông đủ mọi sắc dân khiến New York trở thành một thành phố quốc tế với nhiều sắc thái đặc biệt.

Viếng đảo Ellis

Rời đảo có tượng Nữ Thần Tự Do chúng tôi xuống phà tiếp tục đi sang đảo Ellis nằm cách đó không đầy 1 km ở về hướng Bắc. Ellis ngày xưa là một đảo riêng biệt cách bờ thành phố New Jersey chừng 100 mét nhưng ngày nay có một cây cầu nối liền vào bờ, cây cầu không cho dân chúng sử dụng nên từ Manhattan hay New Jersey muốn ra đảo Ellis du khách đều phải dùng phà.

Ðảo Ellis từ 1892 đến 1954 là cơ sở thanh lọc di dân từ nước ngoài nhập cảnh vào New York để thay thế Trạm Di Trú Castle Garden ở Manhattan hoạt động từ 1855 đến 1890 của chính quyền tiểu bang New York. Kể từ khi có tòa nhà Di Trú trên đảo Ellis thì cơ sở thanh lọc mới này được giao cho chính quyền liên bang quản lý. Ngày nay di dân nhập cảnh không còn dùng tàu thủy nữa mà dùng phi cơ sau khi hồ sơ được Sở Di Trú chấp thuận qua tòa đại sứ Mỹ nên cơ sở thanh lọc trên đảo Ellis đóng cửa và hiện nay trở thành nhà Bảo Tàng Di Dân phục vụ về du lịch cùng với tượng Nữ Thần Tự Do nằm trong danh thắng quốc gia “Statue of Liberty National Monument” dưới sự quản lý của cơ quan công viên quốc gia US National Park Service.

Tòa nhà Di Trú ngày xưa trên đảo Ellis là một kiến trúc có 3 tầng lầu sơn màu huyết dụ với 4 ngọn tháp hình cầu nhìn như những kiến trúc ở Bắc Âu. Tòa nhà được thiết kế bởi hai kiến trúc sư Edward Lippincott Tilton và William Alciphron Boring từng đoạt huy chương vàng tại Hội Chợ Paris năm 1900. Sở di trú liên bang trên đảo Ellis mở cửa hoạt động từ ngày 1 tháng 1, 1892 cho đến 12 tháng 11, 1954 đã từng kiểm tra khoảng 12 triệu người di dân nhập cảnh nước Mỹ. Trong 35 năm trước đó có khoảng 8 triệu người nhập cảnh được kiểm tra qua trạm Castle Garden ở Manhattan do tiểu bang New York phụ trách. Năm 1907 là năm số người qua trạm Ellis cao nhất với 1,004,756 di dân đến đây như ngày 17 tháng 4 có đến 11,747 người di dân đến đảo Ellis. Những ai nhìn thấy có vấn đề sức khỏe hoặc bịnh tật đều bị gởi trả về hay bị giữ ở bịnh viện trên đảo rất lâu. Thường các nhân viên y tế ở đây khám rất nhanh và vẽ các chữ tắt bịnh tật trên áo người di dân nên có nhiều người gian lận bằng cách lộn bề trong áo ra ngoài! Ai khỏe mạnh được nhân viên sở di trú chất vấn 29 câu hỏi như tên họ, nghề nghiệp và mang theo bao nhiêu tiền. Thông thường mỗi người được chấp thuận cho nhập cảnh chỉ mất từ 2 đến 5 giờ đồng hồ ở đảo Ellis tuy nhiên có tất cả hơn 3,000 người đã chết trong bịnh viện trên đảo này. Nhiều người bị từ chối không cho nhập cảnh vì nhân viên di trú nghĩ rằng họ sẽ là gánh nặng cho xã hội. Khoảng 2% bị từ chối vào nước Mỹ và được gởi trả về nguyên quán vì những lý do như mang bịnh truyền nhiễm, có tiền án hay bịnh tâm thần. Ðảo Ellis đôi lúc được gọi là “đảo nước mắt” hay “hòn đảo tan nát con tim” bởi vì số người bị từ chối này đã trải qua một chuyến vượt biển gian nan xuyên đại dương để mong được nhập cảnh vào Mỹ. Nhà văn Louis Adamic đến Mỹ từ nước Slovenia ở vùng Ðông Nam Âu Châu vào năm 1913 mô tả một đêm dài ở đảo Ellis là ông ta và nhiều di dân khác nằm ngủ trên những chiếc giường chồng trong một căn phòng lớn. Không có chăn ấm khiến ông run rẩy vì lạnh, suốt đêm không ngủ nằm nghe tiếng ngáy và tiếng mớ trong giấc mơ với hàng chục ngôn ngữ khác nhau. Cơ sở ở đảo rất lớn nội căn phòng ăn có thể chứa hơn 1,000 người!

Trong thời Ðệ Nhất Thế Chiến, người Ðức đốt phá kho thuốc nổ ở cầu tàu Black Tom khiến tòa nhà di trú trên đảo Ellis hư hại. Người ta sửa chữa lại nhiều nơi trong đó có trần nhà hình cung ở tòa nhà chính hiện nay. Trong thời chiến đảo Ellis còn là nơi tạm giữ những thương buôn người Ðức cũng là trạm chuyển tiếp những thương bịnh binh từ chiến trường gởi về. Trong thời chiến số di dân đến giảm đáng kể chỉ có vài chục ngàn người đến trong một năm, ít hơn bình thường đến hàng trăm ngàn người. Sau Thế Chiến Thứ Nhất số di dân đến tăng trở lại với mức như trước đó.

Làn sóng di cư đông đảo chấm dứt vào năm 1924 sau khi Luật Di Trú mới được thông qua giới hạn số người nhập cảnh và cho phép chuyển thủ tục phỏng vấn qua các tòa đại sứ Mỹ ở nước ngoài. Sau thời gian đó tòa nhà trên đảo Ellis trở thành nơi tạm giữ chờ tống xuất những di dân nhập cảnh bất hợp pháp. Tiếp đến là Thế Chiến Thứ Hai cơ sở trên đảo trở thành căn cứ huấn luyện lực lượng tuần duyên và cũng là nơi tập trung để cô lập những sắc dân mà nước họ đang tuyên chiến với Hoa Kỳ để đề phòng dọ thám hay phá hoại, có 7,000 người Ðức, Ý và Nhật Bản bị giữ ở đây. Với đạo luật Nội An (Internal Security Act) 1950 nơi đây đã tạm giữ những thành viên của những tổ chức Cộng Sản và Phát Xít, cao điểm lên tới 1,500 người năm 1952, sau khi nới lỏng luật di trú số người bị giữ chỉ còn lại 30 người. Tháng 11 năm 1954, đảo Ellis đóng cửa và người ta bắt đầu vận động để tòa nhà này trở thành di tích lịch sử của Hoa Kỳ. Mãi tới ngày 15 tháng 10, 1966 đảo Ellis cùng với tượng Nữ Thần Tự Do trở thành Di Tích Lịch Sử Quốc Gia đặt dưới quyền quản lý của Sở Công Viên Quốc Gia. Ðảo Ellis nguyên thủy chỉ rộng có 3.3 acres nhưng ngày nay đến 27.5 acres vì được lấp dần ra biển bằng đất đào để xây hệ thống đường xe điện ngầm và những đường hầm xe hơi khác.

Chúng tôi vào tòa nhà chính màu đỏ 3 tầng lầu ngày xưa là nơi đón tiếp và thanh lọc di dân nay là nhà bảo tàng về di dân (Ellis Island Immigration Museum). Nhà bảo tàng này không có thu lệ phí và mở cửa mỗi ngày từ 8 giờ 30 sáng đến 6 giờ 15 chiều. Phải tuân theo các điều lệ về an ninh cũng như không được hút thuốc hoặc nhai kẹo cao su trên đảo Ellis cũng như đảo Nữ Thần Tự Do, con nít phải có sự giám hộ của người lớn. Ðồ ăn hoặc thức uống được dùng ở những nơi chỉ định như các quán ăn, giải khát.

Bên trong tòa nhà chính là viện bảo tàng trưng bày các đồ vật, hình ảnh, ấn phẩm, phim ảnh (video), những câu chuyện được đọc liên quan đến lịch sử dài 4 thế kỷ của người di dân đến nước Mỹ. Bên ngoài có bức tường vinh danh những di dân gọi là “American Immigrant Wall of Honor” hiện nay ghi tên trên 600,000 di dân bất kể đến cảng nào trên nước Mỹ. Có 2 phòng lớn được tái tạo như hồi tiên khởi là Phòng Hành Lý (The Baggage Room) ngày xưa mỗi ngày có hàng ngàn người qua đây để nhận hành lý trước khi lên lầu vào Phòng Khai Trình (Registry Room) để gặp nhân viên Sở Di Trú có những dãy băng ngồi chờ đợi. Nhà bảo tàng có những khu như Peopling of America trước kia là phòng vé xe lửa nơi người di dân mua vé để về nơi định cư nay triển lãm hình ảnh 400 năm chính sách thu nhận di dân. Khu khác là American Family Immigration History Center được mở cửa vào ngày 17 tháng 4, 2001 nơi đây trưng bày những quyển sổ ghi tên những con tàu đi vào hải cảng New York từ 1892 đến 1924. Du khách có thể vào xem 11 lãnh vực tài liệu như sổ nhật ký hành trình của những con tàu, hình ảnh của nó và danh sách hành khách theo chuyến tàu. Nhiều người nhận ra tên tuổi của tổ tiên mình ngày xưa đã qua đây để vào nước Mỹ.

Công viên Central Park

Du lịch là đi tìm hoa thơm cỏ lạ nên đến New York mà không vào Central Park là một điều thiếu sót. Người dân New York thường tự hào về công viên Central Park của mình vì giữa đô thị “ai ơi tấc đất, tấc vàng bấy nhiêu!” Người giàu có ở Manhattan phải sống trong những chung cư trên những lầu cao hàng trăm tầng mà giữa thành phố lại dành ra một khu đất rộng lớn đến hơn 1 dặm vuông (843 acres hay 341 hectares) trồng cây làm nơi thư giãn vui chơi cho dân chúng. Central Park được mở cửa năm 1859, hoàn tất năm 1873 và được xây dựng bởi kiến trúc sư nổi tiếng về vườn cảnh (landscape) Frederick Law Olmsted và phụ tá là nhà kiến trúc Calvert Vaux. Công viên không có núi giả sơn, cỏ xén thẳng tắp, hoa trồng phẳng phiu đầy vẻ nhân tạo mà hầu hết cảnh trí đều trông rất thiên nhiên “buồng u tàu xụ trông thật u nhàn” bốn mùa, tám tiết cây cối hoa cỏ thay đổi với thiên nhiên. Trong công viên có những ao hồ thanh tịnh với lau sậy, hoa súng mọc đầy không thấy bờ trát xi măng, có nhiều lối ngõ quanh co cho người đi bộ, có hai nơi trượt băng tuyết vào mùa Ðông nhưng là hồ bơi cho những tháng Hè. Trong công viên có vườn bách thú Central Park Zoo hấp dẫn trẻ con và vườn hoa Central Park Conservatory Garden rộng 6 acres là nơi duy nhất mới thực sự thấy bàn tay con người nhúng vào gọi là “formal garden” theo kiểu vườn cảnh Anh, Pháp hoa cỏ cắt xén theo những đường nét hoa văn, hình học.

Công viên Central Park là nơi thiên nhiên hoang dã (nhưng thực sự do con người tạo ra) nên là ốc đảo quy tụ những loài chim di trú bay về đây nhất là trong hai mùa Xuân và Thu rất hấp dẫn đối với những người có thú ngắm chim (bird watchers) và người ta ước lượng có đến 275 giống chim nhìn thấy ở đây. Về những con số của Central Park: có khoảng 26,000 ngàn cây trong công viên (loại cây nhiều nhất là American Elm 1,700 cây). Có 36 cây cầu, 21 vườn chơi (playgrounds), 9,000 băng đá nếu đặt nối nhau sẽ dài đến 7 miles. Chu vi công viên là 6 miles (hình chữ nhật dài 2.5 miles, ngang 0.5 miles, chiều dài tất cả những con đường đi bộ là 58 miles. Có thể lái xe xuyên qua công viên trên những đường Park Drives với vận tốc tối đa là 25 mph (lưu ý vào cuối tuần có nhiều đường xe đóng lại dành cho người đi bộ). Mỗi năm có 25 triệu du khách vào xem. Giờ mở cửa từ 6 giờ sáng đến 1 giờ đêm (công viên rất nguy hiểm vào ban đêm). Ðậu xe hơi khó trong công viên, nên tìm chỗ đậu bên ngoài có trả tiền. Có nhiều quán ăn trong công viên. Central Park nằm giữa khu Manhattan từ đường 59th St.từ hướng Nam kéo dài đến đường 110th St. ở hướng Bắc và từ 5th Ave. ở phía Ðông sang Central Park West (tức 8th St.) phía Tây. Central Park miễn phí trừ Sở Thú lệ phí $10 người lớn, $7 cao niên trên 65 và $5 trẻ con (3-12 tuổi).

Cũng như những thành phố khác trên nước Mỹ, New York có rất nhiều thắng cảnh, di tích, bảo tàng cần thăm viếng và mỗi nơi đều bán vé vào cửa. Tiết kiệm nhất là mua New York Pass, mua một lần đi hết các thắng cảnh có giá chia ra từ 1 đến 7 ngày khoảng $75 đến $190 cho người lớn (trẻ em rẻ hơn từ $55-$150), độc giả có thể mua ở trang mạng www.newyorkpass.com.

Về thức ăn ở New York vì là thành phố rất đông người di dân nên có các món ăn mọi miền trên thế giới. Người Ðông Âu và Ý Ðại Lợi có những món làm cho New York nổi tiếng như bánh tròn bagels, cheesecake và New York-style pizza. Ðịa phương New York có những món nổi tiếng như thịt bò New York Steak, New York Clam Chowder (cháo ngêu), món đặc sản của người Mỹ là Hamburger cũng xuất xứ từ New York do một người Ðức từ thành phố Hamburg sáng chế. Có hơn 4,000 xe bán thức ăn được chính quyền cấp giấy phép, nhiều chủ xe là di dân từ miền Trung Ðông bán các món như Falafel (viên tròn được chiên bằng bột vài thứ đậu), món thịt xâu Kebaks (làm bằng thịt cừu, dê) và những món ăn nhanh như Pretzels (bánh thắt nơ mà cựu Tổng Thống Bush “con” ăn bị mắc cổ dạo nào), Hamburger, Hotdogs v.v... Gần đây thêm món bánh mì thịt Sài Gòn mà có hai chủ nhân người Việt kiện nhau ra tòa vì tranh nhau bản quyền bánh mì thịt. Hai ông này Thúy Nga Paris cần phải... vinh danh vì phổ biến đặc sản quê hương trên thương trường quốc tế. Nhiều bạn trẻ cũng như sồn sồn gặp trong chợ hoa Tết Bolsa-Phước Lộc Thọ phê bình tôi dạo này viết ký sự du lịch cứ nói di tích lịch sử, thắng cảnh, món ăn khô khan mà không chi tiết cụ thể như nơi nào có nhiều hoa thơm cỏ lạ để các bạn đi tìm. Thể theo nguyện vọng yêu cầu của các bạn độc giả tôi xin hé mở ít thôi: Ở New York muốn tìm hoa thơm cỏ lạ về đêm khách du Xuân cứ thả bộ xuống công trường Times Square nơi đếm ngược thời gian để đốt pháo bông mỗi dịp giao thừa sang năm mới ắt sẽ gặp vô vàn các loài hoa nở về đêm đủ mọi sắc màu, quốc tịch tha hồ mà thưởng ngoạn... giao lưu:

“Em như cô gái hãy còn Xuân

Trong trắng thân chưa lấm bụi trần

Xuân đến hoa mơ, hoa mận nở

Gái Xuân giũ lụa bên sông Vân...”

(“Gái Xuân” thơ Nguyễn Bính, nhạc Từ Vũ)

Trịnh Hảo Tâm

medium_DL_Washington DSC1901.jpg

Năm nay 2010 Lễ Hội Hoa Anh Ðào tại Washington, D.C. sẽ diễn ra từ ngày Thứ Bảy 27 tháng 3 cho đến Chủ Nhật 11 tháng 4, 2010 và cuộc diễn hành sẽ được tổ chức trọng thể vào ngày Thứ Bảy, 10 tháng 4, 2010, trên đại lộ Constitution Avenue đoạn giữa đường số 9th và số 15th Street khu NW. Diễn hành cho công chúng miễn phí tuy nhiên nếu muốn có chỗ ngồi xem thoải mái trên khán đài danh dự (Grandstand) có thể mua vé được bán qua hệ thống www.ticketmaster.com hay gọi số điện thoại 1-800-745-3000 với giá 17 USD mỗi vé và được gởi đến tận nhà.

“Mùa Xuân sang có hoa anh đào

Màu hoa tôi trót yêu từ lâu

Lòng bâng khuâng nhớ ai năm nào

Hẹn hò nhau dưới hoa anh đào

Mình nói chuyện ngày sau...”

(Nhạc phẩm “Mùa Hoa Anh Ðào” của Thanh Sơn)

Mùa Xuân là mùa hoa anh đào, hoa anh đào có nhiều màu từ trắng, hồng cho đến đỏ thắm, màu hoa tươi sắc rực rỡ nở trên những cành cây chưa ra lá. Một cây anh đào không đẹp lắm nhưng cả một rừng nở hoa cùng một lúc thì rực rỡ vô cùng. Xem hoa nở lòng người phấn khởi, dâng lên một niềm tin, một sức sống mới tràn đầy. Ðặc điểm của hoa anh đào là cho tới lúc hoa rơi, hoa vẫn giữ nét sung mãn không héo úa tàn phai như những loài hoa khác. Hoa nở đã đẹp nhưng lúc hoa tàn, bay bay trong gió Xuân nhiều người cho rằng càng đẹp hơn, giống như những cánh tuyết. Hoa anh đào chỉ nở độ hai tuần nên nhiều người cho rằng hoa tượng trưng cho đời người phù du ngắn ngủi. Khi hoa tàn không héo úa phai màu nên người Nhật cho hoa anh đào tượng trưng tiết tháo của người quân tử, cho đến lúc chết vẫn hiên ngang, bất khuất.

Hoa anh đào có hàng trăm loại, nở vào đầu Xuân trên những quốc gia có thời tiết lạnh từ Trung Hoa, Nhật Bản cho đến Âu Châu và ngay cả miền Bắc Việt Nam hay Ðà Lạt đều có hoa anh đào. Có lẽ hoa anh đào nổi tiếng đẹp nhất là hoa anh đào Nhật Bản từng là đề tài gây cảm hứng cho các thi văn họa sĩ sáng tác những tác phẩm để đời.

Mùa hoa anh đào ở Washington, D.C.

Hoa anh đào Nhật cũng đã du nhập sang Hoa Kỳ vào đầu thế kỷ 20 và được trồng nhiều ở Washington, D.C. thủ đô của Hoa Kỳ để ngày nay hàng năm vào mỗi độ Xuân về hoa anh đào nở rất đẹp quanh bờ hồ Tidal Basin cạnh dòng sông Potomac và đài kỷ niệm Washington tức ngọn tháp “bút chì” bằng đá cẩm thạch trắng. Mỗi năm vào đầu Xuân từ cuối tháng 3 cho đến đầu tháng 4, rừng cây anh đào ở Washington DC nở bung những cánh hồng giữa bầu trời xanh biếc, mang đến cho thủ đô Hoa Kỳ một nét đẹp rực rỡ rất riêng tư đặc biệt. Người dân cũng như chính quyền Washington, D.C. chào đón và thưởng thức sắc hoa bằng những lễ hội kéo dài hơn hai tuần gọi là Lễ Hội Hoa Anh Ðào (National Cherry Blossom Festival). Lễ hội quy tụ du khách từ khắp nơi trên thế giới đổ về cũng như người Mỹ từ các tiểu bang khác hội tụ về thủ đô vui Xuân du lịch nhân dịp Lễ Phục Sinh (Easter). Trong suốt hai tuần lễ hội, vùng thủ đô Washington DC tấp nập du khách gây cảnh kẹt xe và từ nhà ga xe điện ngầm Metro Center cho đến viện bảo tàng Smithsonian đông nghẹt những người. Lễ Hội Hoa Anh Ðào với chương trình quy tụ nhiều tiết mục văn hóa vui tươi phong phú như hàng chục quầy thức ăn truyền thống Nhật Bản, các gian hàng trưng bày sản phẩm thủ công, nghệ thuật Nhật Bản, các màn trình diễn vũ điệu, nhạc cụ cổ truyền Nhật Bản như múa trống, múa dù và bầu người đẹp quốc phục Kimono, hoa hậu Queen of Cherry Festival. Ðặc biệt buổi lễ khai mạc với những màn biểu diễn vui tươi, ngoạn mục với nhiều nghệ sĩ nhảy múa rất chuyên nghiệp không thua gì Micheal Jackson. Du khách đến Washington, D.C. tham dự Lễ Hội Hoa Anh Ðào nhớ lấy bản chương trình có ghi chú giờ giấc cũng như địa điểm cho mỗi tiết mục để có thể tham dự thưởng thức trọn vẹn hết các sinh hoạt của lễ hội.

Cao điểm là ngày Thứ Bảy cuối cùng của lễ hội là một cuộc diễn hành xe hoa trên đại lộ Constitution từ đường số 9 đến đường 15 rất ngoạn mục và thích thú. Tham dự diễn hành gồm có nhiều hội đoàn văn hóa, nghệ thuật của nhiều sắc dân trên thế giới ngoài người Mỹ còn có các dân tộc Á Châu như Nhật Bản, Ðại Hàn, Trung Hoa, các nước Nam Mỹ, Trung Ðông, Phi Châu v.v... vì thủ đô Washington, D.C. là nơi định cư của nhiều chủng tộc khác nhau. Hình thức trong cuộc diễn hành là những ban nhạc, những điệu vũ trong quốc phục nhiều màu sắc như múa trống, múa dù, những trò chọc cười làm xiếc như đi cà kheo, cỡi xe đạp một bánh v.v...

Lịch sử hoa anh đào Washington, D.C.

Lễ Hội Hoa Anh Ðào truyền thống hàng năm nhằm kỷ niệm tặng vật vào năm 1912 của thị trưởng Tokyo là Yukio Ozaki trao tặng thành phố Washington DC là 3,000 cây anh đào Nhật Bản. Món quà này nhằm bồi đấp tình thân hữu giữa hai quốc gia Hoa Kỳ và Nhật Bản và tiếp tục kết chặt mối dây liên kết giữa hai dân tộc. Một buổi lễ đơn giản diễn ra vào ngày 27 tháng 3, 1912, có sự hiện diện của Ðệ Nhất Phu Nhân Hoa Kỳ là bà Helen Herron Taft và bà Viscountess Chinda phu nhân của Ðại Sứ Nhật, hai người đã trồng hai cây anh đào đầu tiên tại bờ phía Bắc hồ Tidal Basin trong công viên West Potomac Park. Năm 1915 Hoa Kỳ đáp lễ trao tặng nhân dân Nhật những cây hoa Dogwood. Năm 1935 Lễ Hội Hoa Anh Ðào đầu tiên được tổ chức do sự tài trợ của những hội đoàn dân sự tại vùng thủ đô.

Vào năm 1965, Ðệ Nhất Phu Nhân Hoa Kỳ là Lady Bird Johnson tiếp nhận thêm 3,800 cây hoa anh đào nữa. Một chuyện khá lý thú là vào năm 1981 một nhóm nhà cây cảnh Nhật lại đến hồ Tidal Basin chiết nhánh những cây anh đào ở đây mang về Nhật để trồng lại thay thế cho những cây anh đào Yoshino bị lũ lụt tàn phá. “Bánh ít đi bánh quy lại,” năm 1999 vườn hoa anh đào bên hồ Tidal Basin được trùng tu để thay thế những cây già cỗi bằng những cây mới được chiết từ rừng anh đào nổi tiếng hơn 1,500 năm tại tỉnh Gifu bên Nhật. Những sự kiện này một lần nữa cho thấy cây anh đào giữ vai trò sứ giả trong bang giao giữa hai nước Mỹ Nhật.

Từ năm 1994, Lễ Hội Hoa Anh Ðào bắt đầu kéo dài ra đến hai tuần để có đủ thời gian cho những tiết mục ngày càng phong phú trong mùa hoa anh đào còn nở. National Cherry Blossom Festival, Inc. là tổ chức quy tụ các nhà văn hóa, thương mại và chính quyền đứng ra tổ chức và bảo trợ cho lễ hội văn hóa này. Hàng năm ước lượng có hơn một triệu người về thưởng lãm hoa đào và tham dự lễ hội trong những ngày đầu Xuân tại thủ đô Washington, D.C. thanh lịch này.

Du khách từ xa đổ về thủ đô Hoa Kỳ tham dự ngày Hội Hoa Anh Ðào truyền thống hàng năm vừa chiêm ngưỡng cảnh đẹp rừng hoa vừa khám phá những di tích lịch sử có từ thời thành lập thủ đô (1790) như Ðiện Capitol, tòa nhà Quốc Hội, nơi 4 năm một lần diễn ra Lễ Tuyên Thệ Nhậm Chức Tổng Thống, tòa nhà trắng White House nơi cư ngụ và làm việc của tổng thống, nhà in giấy bạc (Bureau of Engraving & Printing), Thư Viện Quốc Gia và Viện Bảo Tàng Smithsonian nổi tiếng thế giới về tàng trữ sưu tầm các tác phẩm nghệ thuật, khoa học, nhân văn v.v... Ngoài ra thủ đô Washington DC còn có rất nhiều công viên, hồ nước, các đài kỷ niệm vinh danh các tổng thống, các chiến sĩ trận vong trong các cuộc chiến tranh Thế Giới Thứ Nhất, Thứ Nhì, Chiến Tranh Cao Ly và Chiến Tranh Việt Nam. Ở thủ đô Washington DC có 173 tòa đại sứ có thiết lập quan hệ ngoại giao với Hoa Kỳ cũng là nơi có nhiều sắc dân sinh sống với khu Chợ Tàu đông đúc và khu thương mại Việt Nam (Eden Business Center) có hàng trăm cửa hàng là nơi hội tụ người Việt vào dịp cuối tuần hay các ngày Lễ Tết.

Anh đào trong Cổ thi

Sắc màu tươi thắm của hoa đào, người xưa thường so sánh với khuôn mặt của thiếu nữ đẹp. Thôi Hộ người tỉnh Trực Lệ bên Tàu sống trong khoảng triều vua Ðường Ðức Tông. Một hôm trong tiết Thanh Minh, buồn vì thi rớt (ở bên Tàu người thi rớt thường làm thơ rất hay như trường hợp của Trương Kế với bài thơ “Phong Kiều Dạ Bạc”), ông dạo chơi phía Nam thành Lạc Dương trong một vùng trồng hoa đào. Ði một lúc khát nước, ông gõ cửa một ngôi nhà ven đường xin nước uống. Một thiếu nữ diễm kiều xuất hiện mang nước ra cho ông. Hai bên trao đổi câu chuyện và hỏi tên nhau, ra chiều tương đắc. Năm sau cũng tiết Thanh Minh, ông trở lại ngôi nhà cũ, thấy cửa đóng then gài, gọi mãi không thấy ai ra. Ông viết bài thơ dán trên cổng. Vài hôm sau Thôi Hộ trở lại nghe trong nhà văng vẳng tiếng khóc, một ông lão bước ra hỏi ông có phải là Thôi Hộ không? Ông lão cho biết con gái ông sau khi đọc bài thơ của Thôi Hộ dán trên cổng đã tương tư, vật vờ bỏ cả ăn uống và nằm thiêm thiếp như xác không hồn! Thôi Hộ nghe vậy vội tìm vào bên trong, thấy người con gái nằm mê man trên giường nhưng mặt mày còn ấm. Chàng quỳ xuống úp mặt vào nàng mà than van kể lể. Người con gái hồi sinh, tỉnh lại và chàng xin cưới nàng làm vợ. Năm 796 niên hiệu Trinh Nguyên, Thôi Hộ đậu tiến sĩ và làm quan Tiết Ðộ Sứ ở Lĩnh Nam. Bài thơ chàng dán trên cổng khiến cô gái tương tư, được viết như sau:

Khứ niên kim nhật thử môn trung,

Nhân diện đào hoa tương ánh hồng.

Nhân diện bất tri hà xứ khứ

Ðào hoa y cựu tiếu đông phong.

(Thôi Hộ)

Bản dịch của Tản Ðà thi sĩ Việt Nam ta theo thể thơ Ðường Luật:

Cửa đây năm ngoái cũng ngày này,

Má phấn, hoa đào ửng đỏ hây.

Má phấn giờ đâu, đâu vắng tá,

Hoa đào còn bỡn gió xuân đây.

Có người bàng quan ở xứ Bổn Xà dịch qua thể Lục Bát như sau:

Năm xưa ngày đó bên song

Hoa đào giống tựa má hồng mỹ nhân.

Năm nay người ấy về đâu?

Hoa đào năm cũ vẫn cười gió Ðông.

Trịnh Hảo Tâm